Đứng đầu thế giới về XK dăm gỗ nhưng Việt Nam lại không ở thế “cầm trịch” thị trường khi chịu sự chi phối quá lớn từ Trung Quốc. Giải pháp quan trọng trước mắt cho ngành dăm được nhận định là phải cơ cấu lại, tập trung vào nâng cao chất lượng, dựng xây thương hiệu…
Phụ thuộc quá lớn vào Trung Quốc
Theo Báo cáo nghiên cứu “Việt Nam XK dăm gỗ: Thực trạng và thay đổi về chính sách” được thực hiện bởi Tổ chức Forest Trends, Hiệp hội Gỗ lâm sản Việt Nam, Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Bình Định, Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TP. HCM và Hiệp hội Chế biến gỗ tỉnh Bình Dương công bố mới đây: Ngành chế biến và XK dăm gỗ của Việt Nam tiếp tục xu hướng mở rộng kể từ năm 2001. Đến nay, Việt Nam đã trở thành nước XK dăm lớn nhất thế giới.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư): Năm 2009, Việt Nam có 47 nhà máy dăm với lượng dăm XK đạt khoảng 2,3 triệu tấn khô. Đến 2014, số nhà máy tăng lên 130 với lượng dăm XK đạt 7 triệu tấn khô. Năm 2018, con số XK đạt kỷ lục gần 10,4 triệu tấn khô. Giá trị XK cũng tăng từ 796 triệu USD năm 2012 lên đến 958 triệu USD năm 2014 và 1,34 tỷ USD năm 2018. Đáng chú ý, XK dăm Việt Nam tăng đột biến sau mức lao dốc vào năm 2016. Trong 4 tháng đầu năm nay, lượng dăm xuất của Việt Nam đã tăng vọt lên gần 4 triệu tấn, tương đương gần 0,56 tỷ USD.
Ông Tô Xuân Phúc-Tổ chức Forest Trends cho biết: Hiện Việt Nam đã trở thành nước XK dăm dẫn đầu trên thế giới. Lượng cung dăm từ Việt Nam chiếm trên dưới 30% tổng cung dăm toàn cầu. Cung dăm từ Việt Nam có xu hướng ngày càng tăng. Trung Quốc là thị trường tiêu thụ dăm lớn nhất của Việt Nam, với lượng nhập hàng năm lên tới 60-70% tổng lượng dăm của Việt Nam XK đi tất cả các thị trường. Các thị trường lớn tiếp theo của Việt Nam bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, tuy nhiên lượng dăm Việt Nam tiêu thụ ở 2 thị trường này nhỏ hơn nhiều so với lượng dăm Việt Nam tiêu thụ tại Trung Quốc.
Đáng chú ý, mặc dù là nước đứng đầu thế giới về cung dăm gỗ ra thị trường song ngành dăm Việt Nam vẫn chưa đủ mạnh để định hình thị trường tiêu thụ dăm thế giới. Ngành có sự phụ thuộc rất lớn vào thị trường Trung Quốc. Cụ thể, tại Trung Quốc, dăm gỗ Việt Nam không cạnh tranh được với dăm các nước khác về mức giá. Giá XK dăm của Việt Nam thấp bởi một số lý do. Thứ nhất, chất lượng dăm của Việt Nam kém hơn chất lượng dăm của các nước. Hiện tượng lẫn tạp chất, độ ẩm cao, ẩm mốc, hàm lượng xenluloza thấp trong dăm Việt Nam là tương đối phổ biến. Bên cạnh đó, ngành dăm phát triển nóng, mất kiểm soát dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh, đấy giá XK xuống. Sản xuất dăm gỗ không đòi hỏi cao về công nghệ, vốn đầu tư và trình độ quản lý. Trong điều kiện nguồn cung gỗ nguyên liệu đầu vào tương đối sẵn, mức thuế xuất bằng 0 (trước 2016) hoặc thấp (2% ở mức hiện tại), nhiều công ty sản xuất và XK dăm đã được hình thành với số lượng vượt khỏi sự kiểm soát của cơ quan quản lý. Các DN cạnh tranh không lành mạnh, đặc biệt trong khâu thu mua nguyên liệu giành giật người mua. Điều này đẩy giá XK xuống thấp.
“Theo thông tin chia sẻ từ một số DN dăm, ngành dăm có hiện tượng làm giá bởi các DN Trung Quốc tại Việt Nam. Các công ty dăm Trung Quốc sang mua lại các công ty dăm của Việt Nam, thuê quản lý người Việt, những người có nhiều kinh nghiệm trong ngành trước đó. Họ phối hợp với nhau, dìm giá bán. Tính liên kết giữa các DN dăm của Việt Nam lỏng lẻo. Trừ khu vực Quảng Ngãi có hiệp hội dăm, hiện chưa có tổ chức nào đại diện cho ngành dăm trong cả nước. Với các hạn chế này, ngành dăm Việt Nam mặc dù cung một lượng lớn nhất cho thế giới, nhưng ngành tham gia thị trường thế giới với vị thế bị động chứ chưa phải chủ động”, ông Phúc nói.
Có lộ trình tăng thuế phù hợp
Ngoài các vấn đề nêu trên, câu chuyện rất đáng quan tâm của ngành dăm hiện nay chính là tăng thuế XK.
Thời gian vừa qua, Chính phủ đã ban hành một số chính sách nhằm hạn chế XK dăm gỗ, tăng cường chế biến sâu. Một trong những biện pháp cơ bản là áp dụng tăng thuế XK dăm gỗ từ 0% lên 2% kể từ năm 2016. Hiện, Bộ Tài chính đang tiến hành tham vấn với các bộ, ngành liên quan và cân nhắc trình Chính phủ kế hoạch tăng thuế XK dăm từ 2% hiện nay lên 5%. Mức thuế cao, được kỳ vọng sẽ khuyến khích trồng rừng gỗ lớn, tạo nguyên liệu đầu vào cho ngành chế biến đồ gỗ, từ đó mang lại lợi ích cao hơn của cả hộ trồng rừng lẫn ngành đồ gỗ.
Theo tính toán, nếu thuế XK dăm tăng lên 5%, mỗi năm ngân sách từ nguồn thu này lên gần 900 tỷ đồng. Theo một số chuyên gia, câu hỏi đặt ra là việc Chính phủ tăng thuế XK sẽ tác động như thế nào tới chuỗi cung dăm của Việt Nam? Nguồn tin từ các DN dăm cho thấy không có DN dăm nào sẵn sàng giảm lợi nhuận để bù đắp một phần hoặc toàn bộ các chi phí phát sinh do thuế. Hay nói cách khác, nguồn thu từ thuế XK dăm của Chính phủ có nguồn gốc từ việc giảm giá mua nguyên liệu đầu vào từ các hộ trồng rừng của công ty dăm.
Ông Nguyễn Anh Tuấn – Giám đốc Công ty TNHH Nguyên liệu giấy Quy Nhơn – cho rằng: Việc tăng thuế mới giải quyết được phần ngọn của vấn đề. Chính phủ cần có sự chỉ đạo các bộ, ban ngành có đánh giá tác động của việc áp, tăng thuế XK dăm gỗ để có lộ trình tăng thuế phù hợp, không để tác động tiêu cực đến diện tích rừng trồng và người trồng rừng. “Các cơ quan quản lý cần thực hiện được yếu tố quyết định đầu tiên là người trồng rừng thực sự là chủ rừng được giao đất, giao rừng, cấp quyền sử dụng đất lâu dài, giải quyết bài toán vốn, ưu đãi tín dụng để người dân trồng rừng gỗ lớn”, ông Tuấn nói.
Xung quanh vấn đề này, đại diện Vụ Chính sách Thuế (Bộ Tài chính) cho hay: Hiện, Bộ Tài chính đang xem xét sửa đổi thuế XK dăm gỗ nhưng chưa có phương án chính thức. Trên cơ sở ghi nhận, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các DN và hiệp hội, Bộ Tài chính sẽ có những điều chỉnh phù hợp trình Chính phủ trong thời gian tới.
Việt Nam là quốc gia cung trên dưới 30% tổng lượng cung dăm toàn cầu. Về lý thuyết, Việt Nam có sức mạnh định hình thị trường thế giới. Tuy nhiên, đến nay ngành dăm của Việt Nam hoàn toàn chưa tạo được vị thế này. Làm thế nào để phát triển hài hoà, bền vững ngành dăm thời gian tới, theo ông Tô Xuân Phúc: “Các vấn đề lớn của ngành như thiếu tính liên kết, phát triển theo phong trào, chạy theo thị trường, sản phẩm chất lượng thấp, cạnh tranh không lành mạnh đặt ra cho ngành dăm trong thời gian tới cần phải tổ chức lại. Với quy mô của ngành dăm như hiện nay, việc thành lập hiệp hội dăm của Việt Nam là điều cần thiết. Hiệp hội dăm có vai trò kết nối các DN, đảm bảo cân bằng lợi ích, giảm thiểu phát triển nóng và cạnh tranh không lành mạnh trong ngành. Hiệp hội cũng cần xây dựng chiến lược phát triển thương hiệu, với chất lượng sản phẩm được đặt lên hàng đầu; kiểm soát chất lượng dăm XK, nhằm duy trì thương nhằm nâng cao hình ảnh, xác định vị thế của ngành trên trường quốc tế….”.
Theo Đức Phong – Hải Quan